Synap hóa học là nơi tiếp xúc giữa hai
nơron, mà thông qua đó cho phép các nơron truyền đi thông tin qua lại lẫn nhau (chỉ một chiều). Synap không chỉ hiện diện ở các tế bào thần kinh, mà còn ở
tế bào cơ và
tế bào tuyến bằng việc các nơron tạo synap với các tế bào đó. Nhờ việc tạo synap này mới dẫn đến hình thành
các mạch nơron trong
hệ thống thần kinh trung ương. Với quy mô của sự phức tạp ở synap, và minh chứng cho sự tính toán hoàn hảo của
hệ thống sinh học này, tất cả đều là nền tảng cho sự hình thành
tư duy và cả
nhận thức. Chúng cung cấp cho hệ thần kinh khả năng kết nối và kiểm soát tất cả các hệ thống khác của cơ thể.Tại synap hóa học, một
nơron giải phóng
các phân tử dẫn truyền tín hiệu vào nơron kế cận với nó qua khe synap (khoảng trống nhỏ).
Bao synap là những bao nhỏ chứa
chất dẫn truyền thần kinh trong đó, được giải phóng vào khe synap bởi
cơ chế xuất bào. Những phân tử truyền tin này bắt đầu gắn vào
các thụ thể trên màng tế bào sau synap. Và cuối cùng, khi đã hoàn thành xong nhiệm vụ truyền tin của mình, các chất dẫn truyền thần kinh này bị tiêu biến ngay tại synap bởi các cơ chế của hệ thần kinh bao gồm có thoái hóa bởi enzyme hoặc là tái hấp thu qua
các kênh protein vận chuyển xuyên màng, ở màng tế bào trước synap hay là ở một số loại
tế bào thần kinh đệm (
neuroglia) nhằm chấm dứt hoạt động của các phân tử truyền tin này.
Bộ não của
người trưởng thành ước tính có khoảng 1014 đến 5 × {\displaystyle \times } 1014 (100–500 nghìn tỷ) synap.
[1] Mỗi
milimét khối
lớp vỏ não chứa xấp xỉ khoảng 1 tỷ (theo
quy ước số ngắn, tức là 109) synap.
[2] Phân tích toàn bộ lớp vỏ não đã được tách ra riêng biệt cho thấy có rất nhiều synap và ước tính giá trị khoảng 0.15 nghìn triệu triệu (150 nghìn tỷ).
[3]Từ ngữ "synap" được đề xướng bởi
ngài Charles Scott Sherrington vảo năm 1897.
[4] Synap hóa không chỉ là dạng duy nhất tồn tại ở sinh vật sống: ngoài ra còn có
synap điện và
synap miễn dịch. Tuy nhiên là nếu không dựa theo tiêu chuẩn đặc biệt, thì thuật ngữ "synap" thường được xem là synap hóa học.